"Tôi còn nhớ rất rõ",ậtBảnđauđầuvềtìnhtrạnglàmviệctớichếso xo ho chi minh Kei Sato nói ngày 3/11. "Tôi vừa thuyết trình xong và bất ngờ cảm thấy kiệt sức. Tôi từng bị sỏi thận nên ban đầu nghĩ là bệnh tái phát, nhưng tình hình xấu đi rất nhanh nên tôi đã gọi xe cứu thương".
Khi được nâng lên cáng xe cứu thương, Sato cảm thấy nhẹ nhõm. Anh phải phẫu thuật thận ngay lập tức và nằm viện ít nhất 10 ngày.
"Không còn nghi ngờ gì nữa, tình trạng của tôi do công việc quá căng thẳng", Sato nói. "Tôi được cấp trên giao quá nhiều trách nhiệm và không có nhân viên nào hỗ trợ. Thực sự là cơn ác mộng".
Anh thường xuyên đi làm trước 8h và ở lại tới 23h. Trải nghiệm của Sato rất phổ biến ở Nhật Bản, nơi Bộ Y tế ngày 13/10 công bố sách trắng về tình trạng làm việc nhiều giờ ở Nhật Bản cùng mối liên hệ với trầm cảm và karoshi, thuật ngữ chỉ "làm việc tới chết".
Có 2.968 vụ tự tử do karoshi năm ngoái ở Nhật Bản, tăng hơn 1.000 vụ so với con số 1.935 năm 2021. Sách trắng cho hay karoshi liên quan tới số giờ làm việc, với 10,1% đàn ông làm việc ít nhất 60 tiếng một tuần và 4,2% phụ nữ làm việc trên 60 tiếng một tuần.
Karoshi có thể xảy ra do sức khỏe kém. 803 người nộp đơn xin chính phủ bồi thường năm ngoái vì các bệnh về não và tim do làm việc căng thẳng. Năm 2021, con số này là 753 và số cao nhất là 938 năm 2000.
Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng những trường hợp được cơ quan y tế thống kê ít hơn rất nhiều con số thực tế. Việc số vụ tự tử năm ngoái gia tăng khiến họ rất lo ngại, vì trong một thập niên trước đó số người tự tử do áp lực công việc đã giảm dần.
Nam giới ngoài 40 và phụ nữ ngoài 20 chịu khối lượng công việc nhiều nhất. Khoảng 13,2% đàn ông trong độ tuổi 40 và 4,9% phụ nữ trong độ tuổi 20 làm việc ít nhất 60 tiếng một tuần. Con số này cao hơn ở người tự kinh doanh, với 15,4% đàn ông và 7,8% phụ nữ.
Nghiên cứu cũng phát hiện mối tương quan giữa số giờ làm việc và bệnh trầm cảm. 26,8% đàn ông và phụ nữ làm việc trên 60 tiếng một tuần cho rằng bản thân đang mắc bệnh trầm cảm hoặc rối loạn lo âu.
Bill Cleary, giám đốc của tổ chức tư vấn TELL Lifeline có trụ sở tại Tokyo, nói rằng các chính trị gia, công ty và cá nhân đều nhận thức được vấn đề nghiêm trọng này từ những năm 1980 nhưng tới giờ vẫn không thực hiện được các giải pháp hiệu quả.
"Tôi có cảm giác tình trạng này gia tăng do đại dịch, khi mọi người bị cô lập về mặt xã hội và các mối quan hệ, tình bạn ít gắn kết hơn", ông nói.
"Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy tương tác xã hội giúp cải thiện các bệnh cao huyết áp và tim mạch. Nếu chúng ta bị cô lập vào thời điểm khối lượng công việc tăng lên, có thể hiểu được tại sao số lượng các vụ karoshi gia tăng", ông nhận xét.
Một yếu tố khác là thái độ quyết liệt của người Nhật với công việc. Rất nhiều khách hàng nói với Cleary rằng lòng trung thành của họ chủ yếu dành cho công ty, gia đình chỉ xếp thứ hai.
Makoto Watanabe, giáo sư truyền thông Đại học Hokkaido Bunkyo ở Eniwa, cho hay môi trường công sở Nhật Bản thay đổi quá ít, nhiều công ty mắc kẹt trong ký ức "bong bóng kinh tế" những năm 1980, khi giá bất động sản và thị trường chứng khoán bị thổi phồng lên rất nhiều.
"Tôi thuộc thế hệ bắt đầu đi tìm việc vào đầu những năm 1980, ngay sau khi bong bóng kinh tế vỡ và mọi thứ trở nên ảm đạm", ông nói.
"Cấp trên của chúng tôi từng tận hưởng sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những năm 1970 và 1980 và không muốn thay đổi bất kỳ điều gì", Watanabe nhận định. "Nhưng lương bổng ngày càng trì trệ. Có ít người làm việc hơn nên mọi người phải làm việc nhiều hơn, thời gian lâu hơn".
Hơn 30 năm từ khi bong bóng kinh tế Nhật Bản vỡ vào đầu những năm 1930, Cleary cho rằng người lao động Nhật Bản cần tìm lại sự cân bằng và giữ gìn sức khỏe tâm thần cho bản thân.
"Lời khuyên của tôi là hãy nhìn vào bên trong mình, để ra quyết định thứ gì nằm trong tầm kiểm soát của mình", ông nói, đồng thời đề nghị mọi người hãy tránh xa tin xấu trên mạng xã hội, tập thể dục thường xuyên, ngủ ngon và tăng trò chuyện với bạn bè, gia đình.
"Chúng ta phải thay đổi mọi thứ để có hy vọng, bởi nếu không, tình trạng sẽ ngày càng tuyệt vọng", Cleary nhấn mạnh.
Hồng Hạnh (Theo SCMP)